Ngày 16/8, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã chủ trì cuộc họp Báo cáo về Khung định hướng Quy hoạch vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng chủ trì cuộc họp (Ảnh: MPI)
Bước đầu hình thành khung định hướng phát triển vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030
Thay mặt cơ quan tư vấn, TS. Trần Hồng Quang, Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển chỉ ra 5 hạn chế trong phát triển của vùng Đông Nam Bộ: Phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế, tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm; Mạng lưới kết cấu hạ tầng cấp vùng, liên vùng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, thường xuyên xảy ra tắc nghẽn giao thông. Mạng lưới kết cấu hạ tầng cấp vùng, liên vùng, nhất là hạ tầng giao thông kết nối nội vùng và liên vùng còn thiếu, chưa đồng bộ. Tình trạng tắc nghẽn giao thông tại TP. Hồ Chí Minh và một số địa bàn trong vùng chậm được khắc phục và ngày càng nghiêm trọng; Công nghiệp phát triển thiếu bền vững, chủ yếu là gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng thấp. Công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm. Phân bố khu chế xuất, khu công nghiệp chưa hợp lý (khu vực trung tâm vẫn tập trung các khu công nghiệp (KCN) cần nhiều lao động, giá trị gia tăng thấp). Chưa làm chủ được công nghệ cao, công nghệ lõi, công nghệ nguồn trong những ngành chủ lực; Hạ tầng xã hội quá tải, chưa đáp ứng yêu cầu.
Bên cạnh đó, tình trạng quá tải ở các trường học, cơ sở đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, cơ sở khám, chữa bệnh công lập chậm được khắc phục. Phát triển nhà ở xã hội, nhất là nhà ở cho công nhân làm việc tại các KCN, khu chế xuất (KCX) chưa đáp ứng yêu cầu; Tình trạng ô nhiễm nguồn nước, không khí, rác thải chậm được cải thiện. Tình trạng ô nhiễm môi trường, ngập lụt nghiêm trọng, nhất là tại TP. Hồ Chí Minh chậm được khắc phục và ngày càng nghiêm trọng.
Về khung định hướng phát triển và tổ chức không gian vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, TS. Trần Hồng Quang cho biết, mục tiêu tổng quát là xây dựng Đông Nam Bộ trở thành vùng phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, động lực tăng trưởng lớn nhất cả nước; trung tâm khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo, công nghiệp công nghệ cao, logistics và trung tâm tài chính quốc tế có tính cạnh tranh cao trong khu vực. Đi đầu trong đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi số, xây dựng chính quyền số, kinh tế số, xã hội số. Phát triển nhanh hệ thống đô thị thông minh và hiện đại. Cơ bản hoàn thành hệ thống giao thông kết nối nội vùng, liên vùng và khu vực; đầu mối giao thương, hội nhập khu vực và thế giới. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, giáo dục – đào tạo, y tế phát triển đứng đầu cả nước. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện rõ nét và dẫn đầu cả nước. Tình trạng ô nhiễm môi trường, tắc nghẽn giao thông và ngập úng cơ bản được giải quyết. Quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm vững chắc.
Tổ chức không gian phát triển vùng theo 3 tiểu vùng. Trong đó, tiểu vùng trung tâm (gồm TP. Hồ Chí Minh, khu vực phía Nam tỉnh Bình Dương và Tây Nam tỉnh Đồng Nai): dịch vụ chất lượng cao, dịch vụ tài chính quốc tế, giáo dục – đào tạo, y tế, công nghiệp công nghệ cao và chuyên sâu, đầu mối giao thương quốc tế.
Tiểu vùng ven biển (gồm khu vực Cần Giờ của TP. Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu): kinh tế biển (Cảng biển, logistics, dịch vụ hậu cần cảng biển, dịch vụ bảo đảm an toàn hàng hải); công nghiệp khai thác, chế biến dầu khí, hoá dầu; du lịch biển, đảo; khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Hình thành khu thương mại tự do tại khu vực Cái Mép Hạ. Phát triển tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thành trung tâm kinh tế biển quốc gia, TP. Vũng Tàu thành trung tâm du lịch chất lượng cao đẳng cấp quốc tế.
Tiểu vùng phía Bắc (gồm Tây Ninh, Bình Phước và khu vực phía Bắc của Đồng Nai, Bình Dương): Kinh tế cửa khẩu, kho vận, công nghiệp chế biến nông, lâm sản; khu vực mở rộng không gian phát triển công nghiệp của vùng; trồng cây công nghiệp; bảo vệ nguồn nước, hệ sinh thái rừng và đa dạng sinh học.
Các vùng động lực gồm:
Vùng động lực TP. Hồ Chí Minh – Bình Dương – Đồng Nai – Bà Rịa-Vũng Tàu (Vùng động lực quốc gia) bao gồm TP. Hồ Chí Minh và các địa bàn cấp huyện dọc theo Quốc lộ 22, 13, 1, 51 qua các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, trong đó TP. Hồ Chí Minh là cực tăng trưởng.
Các khu kinh tế, khu thương mại tự do, đô thị đặc thù… Trong đó bao gồm nâng cao hiệu quả hoạt động các khu kinh tế cửa khẩu tại Tây Ninh, Bình Phước.
Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, vùng. Khu công nghệ cao; các khu công nghệ thông tin, công nghệ số; Trung tâm công nghệ sinh học quốc gia TP. Hồ Chí Minh…
Tóm tắt 3 kịch bản phát triển vùng (Nguồn: MPI)
Dịp này, đơn vị tư vấn cũng đề xuất kịch bản tăng trưởng thời kỳ 2021-2030. Theo đó, ở Kịch bản 1 – Kịch bản thấp có tốc độ tăng trưởng GRDP dự báo đạt bình quân 4,92%/năm trong giai đoạn 2021 – 2025; đạt bình quân 7,18%/năm trong giai đoạn 2026 – 2030. Tính chung cả giai đoạn 2021 – 2030 đạt bình quân 6,04%/năm. Giai đoạn 2031-2050, tốc độ tăng trưởng dự kiến đạt khoảng 6,85%/năm.
Kịch bản 2 – Kịch bản trung bình, tốc độ tăng trưởng GRDP dự báo đạt bình quân 5,48%/năm trong giai đoạn 2021 – 2025; đạt bình quân 8,66%/năm trong giai đoạn 2026 – 2030. Tính chung cả giai đoạn 2021 – 2030 đạt bình quân 7,06%/năm. Giai đoạn 2031-2050, tốc độ tăng trưởng dự kiến đạt khoảng 7,2%/năm.
Kịch bản 3 – Kịch bản phấn đấu, tốc độ tăng trưởng GRDP dự báo đạt bình quân 5,97%/năm trong giai đoạn 2021 – 2025 (trong đó ba năm 2021-2023: 3,88%/năm; hai năm 2024-2025: 9,18%/năm); đạt bình quân 10,2%/năm trong giai đoạn 2026 – 2030. Tính chung cả giai đoạn 2021 – 2030 đạt bình quân 8,07%/năm. Giai đoạn 2031-2050, tốc độ tăng trưởng dự kiến đạt khoảng 7,6%/năm.
Đột phá về tư duy, cải cách thể chế tạo động lực mới cho vùng Đông Nam Bộ
Nhận định về các kịch bản tăng trưởng của Vùng trong thời kỳ quy hoạch, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng, “3 kịch bản vẫn an toàn quá”. Bộ trưởng cho rằng, nếu đặt ra các kịch bản, định hướng an toàn quá, thì không thể tạo ra những sự đột phá.
TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương chỉ rõ, Đông Nam Bộ là vùng có nhiều nguồn lực, nhưng lại không phát huy được nguồn lực. Ông cũng chỉ ra các thách thức trong phát triển của Đông Nam Bộ. Đó là không bắt nhịp, hòa nhịp với xu thế phát triển. Không chuyển đổi, không thay đổi mô hình phát triển. “Thách thức không phải không đủ vốn, mà không đủ cơ chế, chính sách huy động, sử dụng, phân bổ vốn hợp lý”, ông Cung nói.
Về 3 kịch bản tăng trưởng, theo vị chuyên gia này, việc chốt kịch bản phù hợp với Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội vùng Đông Nam Bộ là “hiền quá, không chạm tới cái căn bản nhất”. Cho rằng, cái tắc nhất là tư duy và thể chế, trong khi xây dựng kịch bản lại chưa dựa trên cải cách thể chế.
Ông đề xuất phải thay đổi thể chế, cùng với đó là phải nâng cao năng lực của bộ máy hành chính. Ngoài ra, cần chuyển công năng của các khu công nghiệp không còn phù hợp. Ông chỉ ra 3 việc cần làm: (1) Tạo không gian vùng liên vùng cho quá trình chuyển dịch, kết nối hạ tầng; (2) Quan trọng nhất là xây dựng một thể chế kinh tế thị trường để khu vực tư nhân, doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi; (3) Thay đổi năng lực sản xuất, tạo năng lực cạnh tranh tốt hơn.
TS. Nguyễn Bá Ân, nguyên Tổng thư ký Hội đồng Quốc gia về Phát triển bền vững và Nâng cao năng lực cạnh tranh nêu quan điểm, quy hoạch vùng Đông Nam Bộ phải làm rõ vì sao tăng trưởng kinh tế của vùng chậm lại, đạt thấp hơn trung bình cả nước; đóng góp vào tổng thu ngân sách nhà nước giảm, tốc độ tăng năng suất lao động thấp; mạng lưới kết cấu hạ tầng cấp vùng, liên vùng, nhất là hạ tầng giao thông kết nối nội vùng và liên vùng còn thiếu, yếu, chưa đồng bộ, ảnh hưởng đến sự phát triển và sức lan tỏa của Vùng; một số công trình trọng điểm chậm tiến độ; tình trạng tắc nghẽn giao thông, ngập úng ngày càng nghiêm trọng tại TP. Hồ Chí Minh…
Đồng ý với quan điểm của TS. Nguyễn Đình Cung, ông Ân cho rằng, nên xác định rõ kịch bản tổ chức không gian; yêu cầu đột phá về thể chế chính sách để thu hút đầu tư, sử dụng hiệu quả nguồn lực; nhu cầu về phát triển kết cấu hạ tầng… theo 3 tiểu vùng để thực hiện mục tiêu đưa ra mà Nghị quyết số 24-NQ/TW đề ra.
Vị chuyên gia này cũng đặc biệt lưu ý tới giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại kinh tế vùng theo hướng hiện đại, lấy kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là trọng tâm và động lực phát triển của vùng Đông Nam Bộ.
Để vùng trở thành trung tâm dịch vụ của khu vực Đông Nam Á về tài chính, thương mại, du lịch, giao lưu quốc tế…, theo ông Ân, phải phát triển hệ thống logistics cấp quốc gia, quốc tế gắn với cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế, các trục hành lang kinh tế trọng điểm và tuyến thương mại liên vùng tại TP. Hồ Chí Minh; Bình Dương; Long Thành, Nhơn Trạch (tỉnh Đồng Nai); thị xã Phú Mỹ (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), tỉnh Tây Ninh phải được chú trọng.
Làm rõ hơn phương hướng liên kết bảo vệ môi trường Vùng và liên tỉnh, các lưu vực sông liên tỉnh, các khu vực ven biển liên tỉnh; kết cấu hạ tầng phòng, chống thiên tai trên lãnh thổ các tiểu vùng.
PGS. TS. Bùi Tất Thắng, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển cũng cho rằng, phải có tư duy đột phá, phải có hệ sinh thái công nghiệp mới. Ông cũng chỉ rõ, nếu không tìm được động lực mới, thì TP. Hồ Chí Minh cũng giảm tốc độ tăng trưởng và khó duy trì được tốc độ tăng trưởng.
Dự kiến phân bổ quy hoạch vùng (Nguồn: MPI)
Cơ hội sắp xếp lại, giải quyết các điểm nghẽn
Đánh giá cao sự chuẩn bị của Viện Chiến lược phát triển, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng lưu ý thêm một số vấn đề để hoàn thiện hơn báo cáo khung định hướng quy hoạch vùng Đông Nam Bộ.
Cụ thể, về hạn chế, thách thức, Bộ trưởng cho rằng, cần phân tích thêm việc vùng đang phụ thuộc nhiều vào FDI, việc phân tích này có thể nhìn từ góc độ từng tỉnh, cả vùng. Việc phân tích này sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách có sự đổi mới, để xây dựng được nền kinh tế có tính tự chủ, chống chịu cao hơn.
Về quan điểm phát triển, Bộ trưởng chỉ rõ, quan điểm phải là “chủ động kiến tạo quyết định tương lai”. Theo Bộ trưởng, những từ khóa này áp dụng cho vùng rất đúng và trúng. Bên cạnh đó là phải giải quyết được bài toán về các điểm nghẽn, thách thức, cản trở, mẫu thuẫn, xung đột trong quá trình phát triển vừa qua và dự kiến trong thời gian tới. Tiếp đó là phải tạo môi trường sống tốt nhất để hút hút được nơi đáng đến, đáng sống, thu hút chuyên gia, nhân tài, nhà khoa học…; có các hạ tầng xã hội vui chơi giải trí, mua sắm, ẩm thực, văn hóa… tạo nên giá trị mới như Singapore.
Bộ trưởng cho rằng, TP. Hồ Chí Minh rất xứng đáng để làm được mô hình phát triển: Kinh tế số, kinh tế chia sẻ, xanh, tuần hoàn… Bên cạnh đó, TP. Hồ Chí Minh cũng cần có thêm kinh tế ban đêm. Đây là động lực đóng góp cho tăng trưởng của nền kinh tế trong thời gian tới.
Về tổ chức không gian phát triển, cần phân tích rõ theo 3 tiểu vùng, từ các thuận lợi, khó khăn, thách thức. Đặc biệt, cần làm rõ vai trò của TP. Hồ Chí Minh với vùng; vai trò của vùng với việc liên kết với Tây Nguyên, với Duyên hải Nam Trung Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, để thấy được tác động bổ trợ nhau, hạ tầng kết nối, không gian phát triển như thế nào.
Về các dự án ưu tiên, Bộ trưởng yêu cầu, xác định rõ thể chế đi kèm, vì không giải quyết được vấn đề không gian, hạ tầng mới thì không thể tạo đột phá.
Bộ trưởng cũng yêu cầu cơ quan tư vấn phân tích để tạo không gian ngầm, tạo ra nguồn lực, động lực mới, vừa giúp giảm tải giao thông, vừa giảm tải ô nhiễm và vừa phát triển kinh tế. Xử lý sụt lún, úng ngập.
Về cơ chế, nguồn lực của vùng, Bộ trưởng cho rằng, cần phân cấp ủy quyền cho địa phương. Bên cạnh đó cần nâng cao vai trò của Hội đồng vùng… Các cơ chế để tạo động lực không gian mới, giá trị mới cho phát triển theo hướng đột phá táo bạo.
Để tiếp tục hoàn thiện báo cáo lần 1 để trình Chính phủ trong tháng 8 này, Bộ trưởng đề nghị, phần đánh giá hiện trạng cần nhận diện chính xác các điểm nghẽn của Vùng, phải phân tích bằng số liệu, tính toán chứ không phải chỉ định tính, mà phải cân đong đo đếm được. Trong điểm nghẽn, thì phần hạ tầng đã rõ, nhưng chưa thấy đề cập tới tư duy trong phát triển cát cứ theo địa phương, chưa phân cấp, ủy quyền, chưa có cơ chế chính sách huy động nguồn lực thỏa đáng đáp ứng nhu cầu.
“Mặc dù mới là khung lần đầu, nhưng báo cáo có tính chất quan trọng, có tính chất định hướng, dẫn dắt quyết định sự đóng góp của vùng đối với đất nước”, Bộ trưởng nhấn mạnh và yêu cầu, cuối tháng 8 này sẽ phải hoàn thành báo cáo lần 1./.